Phân tích bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương 2

Thương vợ là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó là bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình thương yêu nồng hậu của ông tú đối với người vợ hiền thảo của mình.
Sáu câu thơ đầu nói lên hình ảnh của bà Tú trong gia đình và ngoài cuộc đời- hình ảnh chân thực về một người vợ tần tảo, một người mẹ đôn hậu, giàu đức hi sinh.
Hai câu đầu trong phần đề giới thiệu bà Tú là một người vợ rất đảm đang, chịu thương chịu khó. Nếu như bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ “hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, chân nam đá chân chiêu, vì tớ đần trong mọi việc (cấu đối của Nguyễn Khuyến) thì bà tú là một người đàn bà:
“Quanh năm buốn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Quanh năm buôn bán là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác… không được một ngày nghỉ ngơi. Bà tú buôn bán ở mom sông, nơi cái mảnh đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước; nơi làm ăn là cái thế đất chênh vênh. Hai chữ mom sông gợi tả cuộc đời nhiều mưa nắng, một cảnh đời cơ cực, phải vật lộn kiếm sống, mới “nuôi đủ năm con với một chồng”. Một gánh nặng gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền bạc chứ ai đếm con, đếm chồng (!). Câu thơ tự trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia đình gặp nhiều khó khăn: đông con, người chồng đang phải ăn lương vợ.
Có thể nói, hai câu đầu, Tú Xương ghi lại một cách chân thực người vợ tần tảo, đảm dang của mình:
Phần thực tô đậm thêm chân dung bà tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về “lặn lội” làm ăn như “thân cò” nơi quãng vắng. Ngôn ngữ thơ tăng cấp độ tô đậm thêm nỗi cực nhọc của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, gam màu nối tiếp nhau, bổ trợ và gia tăng: đã lặn lội lại thân cò, rồi còn khi quãng vắng. Nỗi cực nhọc kiếm sống ở mom sông tưởng như không thể nào nói hết được! Hình ảnh con cò, cái cò trong ca dao cổ: Con cò lặn lội bờ sông…, con cò đi đón cơn mưa, cái cò, cái vạc cái nông… được tái hiện trong thơ Tú Xương qua hình ảnh thân cò lầm lũi đã đem đến cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Eo sèo là từ láy tượng thanh chỉ sự làm rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tiếp dai dẳng; gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi mặt nước buổi đò đông. Một cuộc đời lặn lội, một cảnh sống, làm ăn eo sèo. Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm nổi bật cảnh kiếm ăn nhiều cơ cực. Bát cơm manh áo mà bà tú kiếm được nuôi đủ năm con với một chồng phải lặn lội trong mưa nắng, phải giành giật eo sèo, phải trả giá bao mồ hôi, nước mắt giữa thời buổi khó khăn!
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Duyên là duyên số, duyên phận, nợ là cái nợ đời mà bà tú phải cam phận, chịu đựng. Nắng, mưa tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực. Các số từ trong câu thơ tăng dần lên: một… hai… năm… mười… làm nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bà tú, người vợ hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quí: đảm đang, tần tảo, chịu thương, chịu khó, thầm lặng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện bút pháp điêu luyện trong sử dụng ngôn ngữ và sáng tạo hình ảnh. Các từ láy, các số từ, phép đối, đảo ngữ, sử dụng sáng tạo thành ngữ và hình ảnh thân cò… đã tạo nên ấn tượng và sức hấp dẫn của văn chương.
Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi mom sông, lúc buổi đò đông đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Trách mình ăn lương vợ mà ở bạc. Vài trò người chồng, người cha chẳng giúp ích được gì, vô tích sự, thậm chí còn hờ hững với vợ con. Lời trách sao mà chua xót thế!
Ta đã biết, Tú Xương có văn tài, nhưng công danh dở dang, thi cử lận đận. Sống giữa một xã hội dở tây dở ta chữ nho mạt vận, lúc mà ông nghè ông cống cũng nằm co chi nên nhà thơ tự trách mình đồng thời cũng là trách đời đe bạc. Ông không xu thời để vinh thân phì gia tối rượu sâm banh sáng sữa bò.
Hai câu kết là cả một nõi niềm tâm sự và thế sự đầy buồn thương, là tiếng nói của một trí thức giàu nhân cách nặng tình đời, thương vợ con mà gia cảnh nghèo. Tú Xương thương vợ cũng chính là thương mình vậy! Nỗi đau thất thế của nhà thơ khi cảnh đời thay đổi!
Bài thơ thương vợ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đương luật. Ngôn ngữ thơ bình dị như tiếng nói đời thường nơi mom sông của những người buôn bán nhỏ, cách đây gần một thế kỉ. Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa cá thể (bà Tú với năm con, một chồng) vừa khái quát sâu sắc: người phụ nữ ngày xưa). Hình tượng thơ hàm súc gợi cảm: thương vợ, thương mình, buồn về gia cảnh thêm nỗi đau đời. Thương vợ là bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương nói về người vợ, người phụ nữ ngày xưa với bao tình cảm trân trọng tốt đẹp. Hình ảnh bà Tú được nói đến trong bài thơ rất gần gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đinh Việt Nam.
Tú Xương là nhà thơ trào phúng xuất sắc trong nền văn học Việt Nam. Tên tuổi ông sống mãi với non Côi, sông Vị. Sinh bất phùng thời giữa cái thời dở Tây dở ta, khi mà Hán học đã mạt vận. Tú Xương vẫn giữ được nhân cách kẻ sĩ, vẫn sống “sang trọng” như ai, bởi lẽ nhà thơ có người vợ hiền thảo đảm đang. Tú Xương không bảng vàng bia đá, nhưng ông đã khắc tên tuổi bà Tú vào bia đá bảng vàng:
“Một ngọn đèn xanh, mấy quyển vàng,
Bốn con làm lính, bố làm quan.
(…) Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ
Đem chuyện trăm năm - giở lại bàn”.
(Quan tại gia)

Tú Xương đã có bài “Văn tế sống vợ”, lại có thêm bài “Thương vợ”, đó là những áng văn thơ vừa tài tình vừa nghĩa tình. Ca dao đã nói người vợ tao khang “tay bưng chén muối đĩa gừng”. Tú Xương có bao giờ quên được công ơn của bà Tú “nuôi đủ năm con với một chồng”.

Tú Xương trào phúng tất cả, kể cả tự trào. Nhưng riêng ở bài thơ này sao mà xót xa và thắm thiết đến thế, một nỗi thương cảm, một tình yêu, một tâm sự biết ơn trong toàn bài, và đọng lại rất sâu ở mom sông, ở lặn lội thân cò, ở eo sèo mặt nước....
Tú Xương, người từng có thơ về các thú chơi, trong đó có thú chơi cô đầu:

(...)

Hỏi ô, ô mất bao giờ
Hỏi em, em cứ ỡm ờ không thưa
Chỉ e rày nắng mai mưa
Lấy gì đi sớm về trưa với tình

Nhưng tôi cứ nghi ngại - đó là chuyện nhà thơ đùa cợt, hoặc cường điệu cho vui, còn chuyện thực, tình thực rất mực nguyên vẹn vẫn cứ là dồn tụ ở nơi bà Tú, vợ một ông Tú mà xoay trở, mà bươm chải, mà vất vả biết bao trong cuộc mưu sinh để nuôi ông chồng "dài lưng tốn vải", tám khoa thi vẫn hỏng, và cả đàn con - "một đàn rách rưới con như bố"...


1 nhận xét to "Phân tích bài thơ "Thương vợ" của Tú Xương 2"

Đăng nhận xét

* Bạn có thể nhận xét / góp ý / bình luận tại đây.
* Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.
* Bạn chưa có tài khoản vẫn có thể nhận xét bằng cách chọn hồ sơ là Tên/URL (với URL là địa chỉ email hoặc blog của bạn).

Loading