Đề : PHÂN TÍCH CÁC NHÂN VẬT TRONG BÀI VỢ NHẶT CỦA KIM LÂN

Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà văn
hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu
phong thuỷ” ấy.Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay ngay vào viết tác phẩm Xóm ngụ cư khi hoà
bình lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng,
truyện ngắn Vợ Nhặt ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình
một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm
hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ Nhặt và
bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất
là Kim Lân đã có công khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân đã từng nói “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về
sự khốn cùng và bi thảm.Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người
chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn nhưng những con người ấy không nghĩ đến
cái chết mà vẫn hướng tới cuộc sống, vẫn hi vọng, vẫn tin tưởng vào tương lại.Họ vẫn muốn sống,
sống cho ra con người”. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc sống về tương lai của
những con người đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống “nhặt
vợ” tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành
công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kĩ lưỡng, nhà văn
đã tái hiện lại trước mắt chúng ta một không gian đói thật thảm hải ,thê lương. Trong đó ngổn
ngang những kẻ sống người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng khóc hờ và tiếng gào
thét gửi gắm trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai,
những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những
số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới
cùng đám người đói phá kho thóc của Nhật ở cuối thiên truyện.
Có thể nói rằng Kim Lân đã thực sự xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ” của anh Cu
Tràng. Tình huống ấy là cánh của khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường
như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì
làm sao có thể đèo bồng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau,
dễ ích kỉ hơn là vị tha và người ra rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn
Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại ở các nhân vật anh Cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ
Tứ. Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn xanh xám như
những bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi gây của xác người”, từng
ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm thiết” ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng
xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và của người vợ
Tràng nữa. Một thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người – thân xác vạm vỡ,
lực lưỡng ấy dường như ngờ nghệch thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao
đẹp. “Cái đói đã tràn vào xóm tự lúc nào”, vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi
anh không biết cuộc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thật liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng
thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật éo le và xót thương vô
cùng. Và dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng
yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa một ao ước thiết thực về sự đầm ấm
của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ
đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy không hề mở cho ta thấy tình cảm của một con
người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ. Như một lẽ đương nhiên,
Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”, “ngờ ngợ”, “ngỡ ngàng” như không phải nhưng chính
tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với
gia đình trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm
tình. Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cọc cằn, Tràng đã sớm thay đổi trở thành một người
chồng thật sự khi đón nhận hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc ấy dường như một cái gì đó “ôm ấp,
mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có một bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”.Tình yêu , hạnh phúc
ấy khiến “trong một lúc Tràng dường như quên hết tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả
những tháng ngày qua”. Và Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi rất bất ngờ nhưng rất hợp
logíc. Những thay đổi ấy không có gì khác ngoài tâm hồn đôn hâu, chất phác và giàu tình yêu
thương hay sao? Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác
lạ. Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu, một người
chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã
bừng bừng thèm muố n một cảnh gia đình hạnh phúc. “Hắn thấy yêu thương căn nhà của hắn đến
lạ lùng”, “hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này”. Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn
dẹp nhà cửa. Hành động cử chỉ ấy của Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự
chuyển biến lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hoà thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn
ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ thay đổi khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá
cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay
đổi. Hắn tin thế.
Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người . Đêm tố ấy rồi sẽ qua đi để
đón chờ ánh sáng cuộc sống tự dong đang ở phía trước sức mạn của thời đại. Một lần nữa, Kim
Lân không ngần ngại hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình. Người vợ nhặt làm thay
đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nàn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác, u tối
của mọi người rạng rỡ hẳn lên. Từ con người chao chát chỏng lọn đến cô vợ hiền thục, đảm đang
là một quá trình biến đổi. Điều gì làm thị biến đổi như thế? Đó chính là tình người, là tình thương
yêu. Thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào cảu
Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân
phong kiến đã bóp nghẹt quyền sống của con người. Thị xuất hiện không tên tuổi, không quê
quán, trong tư thế “vân vê tà áo rách bợt bạt”, điệu bộ trông thật thảm hại nhưng chính con người
ấy lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí gia
đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, sinh khí ấy chỉ có được trong con người thị dung
chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống vào tương lai. Thị được miêu tả khá ít song
đó lại là nhân vật không thể thiếu cho tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh ** Tràng ngày
xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ, cùng cực. Kim Lân cũng thật thành công khi xây
dựng nhân vật này để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin vào
cuộc đời phía trước trong những ngày con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khi nói về ước
vọng ở tương lại, niềm tin vào hạnh phúc , vào cuộc đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng
và người vợ nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét đẹp độc đáo vô cùng : tình cảm, ước vọng ở
cuộc đời lại được tập trung miêu tả khá kĩ ở nhân vật bà cụ Tứ. Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ
bút pháp miêu tả tâm lý nhân vật. BÀ cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu
đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác
phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng
thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường đặt nhân vật ấy vào tình thế căng
thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng, không những giữa các nhân vật mà độc
đáo hơn là ngay trong chính nội tâm của mỗi nhân vật ấy. BÀ cụ Tứ là một điển hình. Việc Tràng
lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà ngạc
nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ
chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã “cúi đầu nín lặng”. Cử chỉ, hành
động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi

buồn cứ hoà lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu
đang “vân vê tà áo rách bợt bạt” mà lòng đầy xót thương. Bà thiết nghĩ “người ta có gặp bước khó
khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ”. Và thật xúc động, bà cụ đã
nói , chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng “Thôi , chúng máy đã phải duyên phải
kiếp với nhau thì u cũng mừng lòng”.
Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước
vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là một vật
cản lớn. Đói rét thật nhưng trong lòng bà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà
thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình. Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực
về gia cảnh vẫn không ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đang giang tay đón nhận
đứa con dâu lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh
liệt. Chính ở người mẹ nghèo khổ ấy, ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại bùng
cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào
lòng con mình những niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên
nuôi gà, rồi vịêc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn chuyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm chi.
Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình. Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối
thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người. Nồi chè cám nghẹn ứ cổ và đắng chát ấy lại
là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương. Bà lão “lễ mễ” bưng nồi chè và vui
vẻ giới thiệu “Chè khoán đấy. Ngon đáo để cơ”. Ở đây nụ cười đan xen lẫn ngước mắt. Bữa cơm
gia đình ngày đói ở cúôi thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương
cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn lao ở những con người
bình thường mà đáng quý.
Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong
đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba nhân vật.
Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống
một cách mạnh mẽ nhất ở những thân phận đói nghèo, thảm hại kia. Ba nhân vật :Tràng, vợ Tràng
và bà cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điểm sáng mà Kim Lân
từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài tâm lý nhân vật, khả năng
dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân - một nhà văn được đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm
nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.
“Cái đẹp cứu vớt con người” (Đôxtôiepki). Vâng Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ
sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn mạch
giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã có đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề
tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu
nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn người đọc chính là điểm sáng tuyệt vời nhất.


0 nhận xét to "Đề : PHÂN TÍCH CÁC NHÂN VẬT TRONG BÀI VỢ NHẶT CỦA KIM LÂN"

Đăng nhận xét

* Bạn có thể nhận xét / góp ý / bình luận tại đây.
* Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu.
* Bạn chưa có tài khoản vẫn có thể nhận xét bằng cách chọn hồ sơ là Tên/URL (với URL là địa chỉ email hoặc blog của bạn).

Loading